Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ
B.S. Nguyễn Lưu Viên
------------------------------------------------------------
Lời nói đầu
Cả năm qua báo chí Mỹ
thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ
Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không
có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn
hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề
tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, [un vrai labyrinthe avec des
souterrains] một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn
thì sẽ dể bị lạc.
Rồi tôi nghĩ rằng
trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như
tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này
tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo
lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng
dollar là một thực thể mà mình phải đ6í phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương
pháp hõi và đáp [H & Đ] để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.
Tôi xin lưu ý quý bạn:
Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết
tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang,
HCQHK là Hiệp Chũng Quốc Hoa-Kỳ USA và T.T. là Tổng Thống.
------------------------------------------------------
I- Tạo ra
tiền [create money].
H-: Dollar
là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành
dollar?
Đ-: Câu
trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của CPLB . Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ
Tài Chánh của CPLB chỉ có quyền
phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One Cent, Five Cents,
One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy
thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ
có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-: Tôi
thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có
chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà
không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?
Đ-: Vâng,
coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal
Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt
and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là
một tờ giấy nợ.
H-: Ai
nợ ai?
Đ-: Chánh
Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao
lại có chuyện đó?
Đ-: Số
tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy
nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách
cho phép Bộ Tài Chánh [The Treasury Department] in giấy nợ dưới hình thức
“Federal Bonds” [là giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại
với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ, quyết định].
FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho chánh phủ. Thế
là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời.
Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5
trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21
trillion.
H-: FED
là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB
mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-: Khác,
vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không
phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a corporation
independent privately owned].
H-: Privately
owned thì ai own nó?
Đ-:
Federal Reserve [FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional
federal reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành
viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New
York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond,
8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.
Fed Bank
của New York
có đa số cổ phần [53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York , Citibank và J.P.Morgan Chase Co
nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co
là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình
Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi
là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp].
H-: Nhưng
trong Ban Quản Trị [Board] của FED ở Washington
có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố
[the Comptroller of Treasury] là nhân viên chánh phủ.
Đ-: Vâng,
vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T.
Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản
Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một
cơ-quan “gần như chính thức” [ quasi-governmental]. Hội
Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền
thay thế một người mỗi hai năm.
Như vậy,
thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ý của ông, thì trong
nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người [vì ông chỉ có quyền
thay thế một người mỗi 2 năm.] Thôi thì cho rằng ông ấy là một ông T. T.
tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây
ra [vì quan niệm muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả
hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ
thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu
được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra
được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết
ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.
Mặt khác
ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed
bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ
phần. Vã lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh
phủ “audit”[ soát xét ] vì năm 1975 dự luật [bill] H.R.4316 cho phép chánh phủ
“audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được vì không đủ
phiếu.
Hảy xem
như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate director] cho J.P.
Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức
đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu.
Nghỉa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. Mà trong lúc
tại chức Ông không bao giờ có hợp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là
không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.
H-: Trở
lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn
quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy
trong tổng số tiền của Mỹ, tỹ-lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu?
Đ-: Tiền
coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng
số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy
được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American
Money Supply]
H-: Sao
kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90%
còn lại là tiền ma [phantom money].
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-: Là tiền không có thật,
là tiền được tạo ra từ chổ không có gì hết [money created from nothing], do cái
trò ảo-thuật cho vay [gọi là “loan”] tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu
được.
Đ-: Thực ra thì cũng không có gì
khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không [create money out of nothing]
dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đao-luật tạo ra FED
[Federal Reserve Act] cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó
một số tiền X là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như
là để dự-trữ [reserve], thì nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X tiền
ma, không có bảo đảm reserve].
Thí dụ
như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank
để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000
[tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm] Cũng như
thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có quyền
phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank có quyền phát
ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn
nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác] thì nhà bank cho ảnh
mượn [dưới hình thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó
cộng với lời [x %] dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoac 30 năm
chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc
nhờ việc làm [như phòng mạch] của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của
“loan” đã “create money out of nothing”.
Thí dụ
trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẩu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu
là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số
triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v.
cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ
khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [american money
supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible currency] chỉ có
$ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó
cũng được áp dụng cho việc dùng credit card [Visa, Master Card, American
Express v.v.] với một lải xụất [% interest] còn cao hơn gắp bội.
II- Một
chút lịch sử.
H-: Từ
đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh
nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con
“Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần
thoại] hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi
[tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới hình thức hiện
tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson
ký [về sau ông hối tiếc]. Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái
lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần
lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh
có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi
sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang
trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.
Ở Trung học
chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc
mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một buổi tiêc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea
Party]. Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà
và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đòan dân
quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một
Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia
để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đống Thuế” [Delaration des
Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn
dân quân của Massachusetts ,
Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp [Déclaration d’Indépendance ngày
4-th7-1776.] Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh
thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785
Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.
Nhưng sau
này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin
Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1-Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691,
các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial
Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi
hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin
Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc
in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành
bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra
sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên giá vật và giá công
[product and service] vẫn được đều hòa và thăng bằng Nhờ vậy mà các thuộc
địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà
ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng
[The streets are covered with beggars and tramps]. Thì các chủ nhà bank
Anh [the British bankers] lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh
cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của
mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England
phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lênh ấy.
Thì các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết
để tạo sự kém phát deflation], người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền
mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hảng xưởng
không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất
rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng,
nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách
Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.
2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy
được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU [I owe you.] nghĩa là
giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay
bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip”
được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Thì mẫu quốc phản ứng
bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc
đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn
giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt
trận kinh tế [dính liền với tài chánh].
3- Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá
trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc [the Founding Fathers], không còn tin tưởng
nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền
giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay vì “create money”] và có
quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to borrow money on the
credit of the United States]. Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh củ, là các ngân
hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England
Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài
phiệt tư nhân gốc gác Hòa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập
vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the enormous loophole] mà nói
rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank
có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần
tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins [bằng vàng hay
bạc] ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.
4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất
ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng năm
chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy
đến đòi lấy lại tiền coins. Thì nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm
90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn
tới việc phát hành tiền ma.
5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T.
thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đòan các nhà bank [the
banking cartel] là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và
Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của
mình, thì trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation]
các nhà bank và các công ty [corrporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài
sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà
cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận
tái ban cho đặc quyền [renew the charter] cho First U.S.Bank. Thì chiến
tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự
lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. Vì những lý do đó, Tổng Thống James
Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm [a
twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào năm
1816.
6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T.
thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiép tục ban đặc quyền cho
Second Bank of the United
States . Trong bản veto Ông viết:” Không có
cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà
bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy
tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì
còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.
Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của
cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị
chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh
[Treasury Secretary] mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ
Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] thì ông này từ chối
không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng
từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh
nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi” Nhưng
ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng
kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát
[deflation] bằng cách hồi [call in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan”
mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh [a financial panic] xẩy ra trong dân chúng,
thì báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor
của Pennsylvania [là nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T.
Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của
nhà bank bị phơi bày trước công chúng.
Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House of
Representatives] với 134 phiéu thuân và 82 phiéu chống, đã hủy bỏ việc tái ban
đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì T.T.
Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-th.1- 1835, khi
T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lể của Dân-biểu Warren R. Davis của South
Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong
rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T.
Jackson đóng cửa nhà bank trung ương [Central Bank] thì tiền giấy được dùng là
những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng
vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national
currency].
7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con
hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền
sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức thì Nội Chiến Nam-Bắc [The Civil
War] bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà bank của vủng Đông [tức
là thuộc về Union ] đề nghi cho chánh phủ vay
$150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và
quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United
Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh
lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại
bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công
lao sản xuất [product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công
lao dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật
tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công
lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ ký đến giam đốc đến nguyên thủ quốc gia.
Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao
giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công
lao tương đương của người bán.
Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho
dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông
Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn
năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và
việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ
những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế
giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial
giant], kỹ nghệ thép [steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên
luc-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy
và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ
Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng
Miền Tây, tăng múc sản xuất lao động [labor productivity] lên từ 50 đến 75 %.
Tất cả những viêc ấy thục hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính
chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị
T.T.Lincoln chặt.
Nhưng đến ngày 14-th.4-1865, thì một kịch-sĩ tên là
John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our
American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra
lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẩn thích có tiền vàng
nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Thì các nhà
bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng
những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất
hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.
III- Tân
hydra chào đời.
H- : Tai
sao có Luật đó?
Đ-: Vì năm
1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủmg Tài Chánh” [a Financial Panic] nên
năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho
thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ
tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên ngoại của David
Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên
cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách hòan tòan bí mật,
một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới
Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là
ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có
một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng.
Trong số đó người sẽ đống vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932)
người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành
viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc vào tài sản
của Rothschild].
“First Name Club” được triệu tâp đến một hòn đảo nhỏ
bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, hợp trong
chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp
tiền tệ [the banking and currency legislation] sẽ trình cho Congress.
H-: Trong
dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-: Có
rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét. nên phải
tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ
quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển vì vậy mà có danh
từ “Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central Bank] và có
Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân
viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được
chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu
thực ý: như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục đích của luật là
để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” [to furnish an elastic
currency] nghĩa là gì?
Trong thực
tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng
lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting] nghỉa là
gì? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng
gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho
tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung
ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chô không có gì hết [create
money out of nothing] rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm
soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bôm phòng nó lên hay hút bớt nó
xuống tùy theo ý muốn [control the national money supply, expanding or
contracting it at will.]
H-: Thế
mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ.
một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. [bố
của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật
tệ hại nhứt của mọi thời đại Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một
nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về muc
tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của
người khác “.
Và cũng còn
một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại
số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm
Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày
25-th.6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc là vì thấy
có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên
sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có
đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”
Bởi vậy cho
nên ngày 18-th.9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và
85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19-th.12-1913, dự luật được chấp
thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây
lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong
cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng
ý nên đã sửa lại. Thì sau khi Thượng Viên biẻu vquyết, hai Viện phải ngồi
chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực
hiện chỉ có trong một weelend. .Cho nên ngày Thứ Hai 22-th.12-1913 dự
luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi,
cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu
chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23 th.12-1913.
Tất cả những
việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống
của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress
[Thượng và Hạ Viện] thảo luân và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel,
để cho Congress “recess” [thường thường là kể từ 15, 17 Dec.] và các Nghị Sĩ và
Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành
Pháp [Chánh Phủ] ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch”
của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo
luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau
weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hơp lại, thảo luận
và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. ký thành Luật.
Dân Biểu
Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên
thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô
hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hơp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết
chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau
mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí [đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền
Tệ”] thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang
đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp
mọi giai câp.
H-: Thế
là con hydra được khai sanh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất
nước?
Đ-: Hay đúng
hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói
gì lạ vây, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm
của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để
trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím
cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED.
thì họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth Amendment]
cho phép CPLB đánh thuế income tax
vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về
thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của
chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.
H-: Bộ
trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không,
trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã
được hơp-pháp-hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-:
Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hơp-pháp-hóa rồi
thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-:
Tai nạn gì?
Đ-: Cuộc
Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.
H-: Bằng
cách nào?
Đ-: Bằng
cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân
vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] thì dân ùn ùn vay loan và
loan để có tiền tiêu xài thả ga. Thì nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một
số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói là để kềm hảm
sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra,
không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để
trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ [Monetary Power] có
tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu
nợ thì trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như
hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước
ngày Cách Mạng Mỹ [American Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ
chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32
của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà
tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết:
“Nhứt định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba
[1/3] số tiền đang lưu hành.từ năm 1929 tới năm 1930”.
Còn Ông
Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói:
“Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu
rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để
rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế
rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có
chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963
T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho phép CPLB
phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The
Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là
mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver
certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in
the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce
bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung
ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Thì FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng
các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của Chánh Phủ được bạc yểm trợ
[backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái gì
yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà
không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là
trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ,
đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm tháng
sau, ngày 22-th.11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này
hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
H-: Như
thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay
nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi
không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] vì tôi không đọc được sách
nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực
Tiền Tệ [the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp
[the Robber Barons] về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho nên
tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.
Tôi chỉ
xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm
soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số
phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ:
T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám
sát.
Tài liệu
được tham khảo:
The Web
of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge , 2007
The
Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research
Institute Staunton, 1993
Modern
Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago , now out of print: http://landru.i-link-2.net
The
Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11-28-98 in http://www.apfn.org/
NLV
Hydra tiên tệ trên trường quốc tế.
B.S.Nguyễn Lưu Viên.
--------------------------------------
Lời nói đầu:
Trong bài “Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ,
chúng ta đã thấy con hydra tiền tệ Mỹ có tên là Federal Reserve [FED]hoạt động
như thế nào trên đất Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ[HCQHK]. Hôm nay chúng ta sẽ
cố găng tìm xem có con Hydra tiền tệ nào hoạt động như thế trên trường quốc tế
hay không?
------------------------------------------
Nhắc lại
một sự kiện lịch sử:
Ngày 18-th.6-1815, cuộc chiến tại Waterloo đang diển
tiến, ông Nathan Rothschild, lúc đó đang là một trong số những chủ ngân hàng
lớn nhứt của London, nắm được tin Hoàng Đế Napoléon sẽ đại bại trước nhà cầm
quyền Anh 24 tiếng đồng hồ. Ông Rothschild liền tung tin nói rằng Napoléon sẽ
đại thắng. Giá cổ phiếu trên tòan bộ thị trường chứng khóan lập tức tuột xuống
tận dáy. Thì Ông Nathan Rothschild liền tay mua gom, vét hết, các cổ phiếu với
giá rẻ mạt. Cuối cùng khi chiến thắng của Tướng Wellington được lan truyền khắp
thủ đô London
thì giá các cổ phiếu lại tăng vọt lên. Thỉ trong vài giờ, Ông Nathan
Rothschild lại tung các cổ phiếu này bán lại, và thu được những khoản chênh
lệch kếch xù.
Đó là chuyện
thời xưa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét chuyện thời nay.
Thỏa Hiệp
Bretton Woods. [The Bretton Woods Accords]
Báo chí thường hay nhắc tới cụm từ Bretton Woods.
Vậy nó là gì, ở đâu? Tra Từ-điển Webster mới biết đó là tên của một nơi
nghĩ mát [resort] trong núi White Mountains ở Tiểu-Bang New
Hampshire . Xem bản đồ Tiểu Bang mới thấy nò nhõ xíu
nằm trên đường 320 ở giữa hai thành phố nhỏ Twin Mountain
và Crawford House. Thế mà năm 1944, trước khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt năm
1945, nó được chọn [theo ý của Ô. David Rockefeller] làm địa điểm hội họp cho
một Hội Nghị Quốc Tế về Tiền Tệ. Hai người đóng vai chánh trong Hội Nghị
là kinh-tế-gia Anh danh tiếng quốc tế John Maynard Keynes và Thứ Trưởng Tài
Chánh Mỹ Harry Dexter White.
Hội nghị đưa đến một thỏa hiệp được gọi là Thỏa Hiệp
Bretton Woods [the Bretton Woods Accords] Theo Thỏa Hiệp này thì bản-vị
vàng [the gold standard] vẫn được giữ và được đồng dollar yểm trợ
[backed by the US dollar] vì đồng dollar được coi là “tốt như vàng” [as
good as gold ] và Mỹ cam kết sự có thể đổi [convertibility] dồng
dollar ra vàng theo giá $35 dollars một ounce vàng. Bản vị vàng của Bretton
Woods [the Bretton Woods gold standard] “chạy đều” được một thời gian,
vì ít có nước nào đổi dollars của mình ra vàng, và người ta còn tin tưởng nơi
khả năng trả được [solvency] của Hoa Kỳ.
Nhưng kể từ năm 1965 chiến tranh ViệtNam đã kéo nước
Mỹ vào vòng xoắn của nợ nần [the spiral of debt] thì T.T. De Gaulle của
Pháp, nhận thấy Mỹ tiêu xài quá cái mức vàng được dự trữ, nên đòi Mỹ phải
trả lại cho Pháp số vàng tương đương với $300 triệu dollars mà Pháp đang có. Mỹ
làm đúng theo lời yêu cầu của De Gaulle. Nhưng kho dự trữ vàng của Mỹ bị “xẹp”
đến nỗi mà năm 1971 T.T.Nixon phải rút dollar ra khỏi bản-vị vàng [took the
dollar off the gold standard] và hủy bỏ luôn việc đổi dollar ra vàng. Thì
các ngân hàng tư nhân và FED lại có dịp dở lại cái trò ảo-thuật “loan” để
“create money out of nothing”.
Rồi lại thêm một trò ảo-thuật mới nữa được gọi là
“short selling” là một thứ “mượn đầu heo nấu cháo” dựa trên hai nguyên tắc căn
bản của “Kinh Tế Thị Trường” là: 1- Luật cung cầu: Hể cung [offre] mà nhiều hơn
cầu [demande] thì giá hàng xuống, và hể cung mà ít hơn cầu thì giá hàng tăng
lên. 2- mục đích hoạt động của một công-ty là làm sao cho có lợi có lời
cho người có cổ phần [shareholder] và ý muốn của người [hay của nhóm người] nắm
đa số cổ phần là “ý muốn của vua” giám đốc công ty phải tuân theo.
Và đây là lối hành động của “short selling”. Thí dụ
như tôi đã nghiên cứu và khám phá ra được một lối chế tạo một món hàng mà tôi
cho rằng sẽ được dân chúng thích, thì tôi phải dựng lên một công ty để sản xuất
món hàng đó; nhưng vì không có đủ tiền nên tôi phải kêu gọi người ngoài hùn vốn
bằng cách “bán cổ phần” thí dụ như tung ra một triệu cổ phần, mỗi cổ phần giá
là $50 dollars. Nhờ có nhiều người hưởng ứng vì thấy món hàng tốt sẽ được dân
mua dùng, nên người thì mua vài chục, kẽ thì mua vài trăm, có khi một mhóm kinh
doanh mua vài ngàn cổ phần. nên tôi có được 50 triệu dollars để dựng lên
“Công ty V”có nhà máy sản xuất, có cơ sở giao dịch, có văn phòng, v.v… Nhờ hàng
tốt dân chúng thích, mua nhiều, nên “Công-ty V” phát đạt. Giá trị của cổ phần
công ty mỗi ngày một tăng. lên tới thí dụ như $70 dollars mỗi cổ phần. Thường
thường người muốn mua cổ phần là mua qua một môi-giới [“broker”] và gởi giấy số
cổ phần đó cho “broker” giữ, chớ đâu có đem về nhà. Một ông chủ nhà bank
B, thấy “Công ty V” phát đạt nên muốn chiếm lấy nó. Thì ổng [là “bồ tèo”có khi
là chủ nhân thật của tên broker] đến “mượn” một số X cổ phần của “Công ty V” và
tung số đó ra càng ngày càng nhiều vào thị trường... Thì trên thị trường số
cung [của cổ phần “Công ty V”] càng ngày càng tăng, mà số cầu thì có hạn, nên
giá của cổ phần càng ngày càng xuống. Những người ở nơi khác có cổ phần “Công
ty V” thấy giá cổ phần xuống liền liền, thị vội vã biểu broker của mình bán mau
mau cổ phần “Công ty V” của mình, thì trên thị trường tràng ngập cổ phần “Công
ty V” với giá rẻ, thí dụ như chĩ còn có $25 dollars mỗi cổ phần. Thì Ông B lấy
tiền của nhà bank mình quơ [rafler] hết các cổ phần “Công ty V” có trên thị
trường. Ông trả lại cho broker “bồ tèo” của ổng số X cổ phần mà ổng đã “mượn”.
Còn phần Y còn lại thì ổng giữ như là của. riêng của ngân hàng B.
Bây giờ ông B có thể có hai quyết định: Một là để
cho “Công ty V” vẩn sống, thì ổng bớt hẳn số cung [bán ra] cổ phần Công ty V
trên thị trường làm cho giá của nó tăng lên trở lại để đem cái lời cái lợi về
cho các chủ cổ phần [mà chính ngân hàng B được hưởng thụ nhiều nhứt vì là nắm
đa số cổ phần ]
Hai là
ổng có thể giết chết luôn Công ty V, vì trong hội nghị hằng năm, hay hằng tam
cá nguyệt của công ty, “ý muốn của người có đa số cổ phần là ý muốn của vua”
nên ổng quyết định dẹp bỏ công ty vì quá lỗ lã. bán mau mau với giá rẽ, tất cả
máy móc cơ sở của công ty [không còn tên trong danh sách các cơ sở], thì một
“bồ tèo” hay một “tay sai” của ổng mua hết máy móc dụng cụ cơ sở đó, để dựng
lên một Công ty mới có tên khác, sản xuất cùng một thứ hàng mà dân đã thích
mua. Còn tôi, người tìm ra phương pháp chế tạo hàng thì được mướn ở lại làm
công như một kỷ-sư chuyên môn, hay là bị đuổi đi. Thế là “Công ty V” mà trong
bao nhiêu năm tôi đã tốn không biết bao nhiêu thì giờ và công khó nhọc để
nghiên cứu, suy nghĩ, thử đi thử lại mới chế tạo ra được món hàng được dân ưa
thích và tạo dựng lên được một cơ sở mà tôi lấy làm hãnh diện, trong chốc lát,
đã bị nhà bank B nuốt hết, nhờ cái trò ảo thuật “short selling”
Trên bình diện quốc tế, nếu có một tổ chức nào mạnh
và giàu, đem áp dụng trò ảo-thuật “short selling” đó vào một quốc gia yếu
và nghèo, thì cả hệ thống kinh tế và hệ thống kỷ nghệ còn non nớt của quốc gia
ấy, sẽ bị “nuốt” mất hết ……….Mà tổ chức mạnh và giàu đó đã có rồi ……..Đấy
là :.
IMF & World Bank. Ngoài việc đưa đến một
Thỏa Hiệp, hội nghị ở Bretton Woods nói trên còn đẽ ra được hai con hydra khổng
lồ là:
IMF [the International Monetary Fund Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế] và World Bank [the International Bank for Reconstruction and
Development Ngân Hàng Quốc Tế] Nói là để giúp Đệ Tam Thế Giới [the Third World]
và các quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá. Nhưng trên thực tế thì khác hẳn, vì IMF
và World Bank sẽ áp dụng cho Đệ tam Thế Giới hai trò ảo-thuật “loan” và “short
selling” cộng với hai quan niệm “cho chắc ăn” rất đặc biệt như sau:
1- Để
“cho chắc ăn”, các nhà bank thích “chơi” với các chánh phủ “vững chắc”, nghĩa
thông thường là các chánh phủ độc tài [The banks preferred “stable”
governments for clients. Generally that meant governments controlled by
dictators. Theo sách: “The Web of Debt” tr.215]]. Còn từ đâu
các nhà độc tài đó có được quyền hành và họ làm gì với tiền, thì không phải là
mối lo của các ngân hàng. Cho nên một số quốc gia ở Nam-Mỹ dược thí nghiệm. Ở
ChíLợi, ngày 11-th.9-1973 TT... Salvador Allende, một vị tổng thống được dân
bầu một cách dân chủ, bị Tướng Augusto Pinochet đảo chánh. Ở Peru chánh phủ
bình dân [populist] của T.T. Alan Garcia bị cho vào “sổ đen”[black list] của
IMF, nên ngày 28-th.7-1990 thì bị chánh phủ của T.T. Alberto Fujimori thay thế
để áp dụng cái gọi là “economic shock therapy” của IMF. Rồi đến Argentina , các
cuộc đảo chánh do bọn “Chicago Boys” gây ra.
2- Để
“cho chằc ăn” các thứ tiền viện trợ cho y-tế, cho giáo-dục, cho sức khỏe trong
các quốc gia mắc nợ phải bị bỏ đi, theo lệnh của IMF, để cho các nhà bank được
trả nợ đúng kỳ [Public spending for health, education and welfare in debtor
countries was slashed, following IMF orders to ensure that the banks got timely
debt service on their petrodollars..Theo sách:”The Web of Debt” tr.215.]
Cho nên trong các quốc gia có nhận viện trợ của IMF,[như Bengladesh,
Bolivia, Brazil, Peru Ethiopia, Somalia, Uganda, Việt Nam và một số quốc gia
trong khối Liên Bang Soviet URSS củ], con nít đi học phải trả tiền, người
đau ốm vào bệnh viện phải trả tiên, chớ không còn được miển phí như
trước. Kết quả là ở trong đa số các quốc gia ấy [trong đó có VN thời “bao cấp”]
nền giáo dục bị phá tan [Destruction of Education], hệ thống bảo vệ sức
khỏe bị sụp đổ [Collapse of the Health System ], thì các bệnh nhiễm
trùng tái phát [Resurgence of Infectious Diseases].
Riêng ở Việt Nam còn có một chuyện lạ nữa mà mình
không biết là: sau khi CS Bắc Việt chiến thắng, thì IMF đòi Hànội phải trả một
số tiền $140 triệu dollars mà Chánh Phủ Saigon [VNCH] hồi trước còn nợ IMF, rồi
IMF mới giúp. Thì Hànội phải chịu và may cho Hànội, là Pháp với Nhựt lập lên
một “Ủy Ban Bạn của VN” [Friends of VN Committee] cho Hànội mượn số tiền đó để
trả cho IMF.
Ngoài các tai hại về y tế và giáo dục nói trên, IMF
còn gây ra nhiều tai họa khác độc ác hơn nữa, như đem nước sông vào ruộng để
cày cấy mà phải trả tiền nước [ở Bolivia Nam Mỹ] nạn đói [như ở Somalia,
Ethiopia] nạn thiếu dinh dưởng [ở cùng hêt] nạn thiếu an ninh, lọan vì biểu
tình chống đối và đàn áp [ở cùng hết], nạn nội chiến vì chủng tộc [như ở
Uganda] có thể đưa đến nạn diệt chủng [như ở Rwanda] ,v.v. mà các sách tôi đã
tham khảo diễn tả rất đầy đủ trong vài ba trăm trang. Tất cả việc đó xẩy ra sau
khi áp dụng cái được gọi là “ IMF shock therapy” với “privatization”
[tư-hửu-hóa], với “deregulation” [bỏ luật lệ ràng buộc] để “giúp đở”, để
“khuyến khích” để “chỉ dẩn” cho dân địa phương. Luôn luôn, dưới chiêu bài là
“để thực hiện dân chủ”, “ để gia nhập kinh tế thị trường” và để xây dụng
một “Nền Trật Tự Mới”[a New World Order].
Riêng Việt Nam thì không bị những tai họa ấy, nhờ
chính sách “Đổi Mới” biến hơn hai triệu “thằng ngụy” đã hèn nhát bỏ trốn ra
nước ngoài, trở thành những kiều bào hải ngoại yêu quý, “khúc ruột xa ngàn dậm”
của dân tộc, được ân cần mời đi nhũng tours du lịch về VN, để đổ vào nền kinh
tế của quê hương hằng năm một hai tỷ, rồi ba bốn tỷ, rồi năm sáu tỷ dollars.
Nhờ số tiền đó, vì không phải của IMF cho mượn, thì không bị luật lệ của
chủ nợ ràng buộc, cho nên tất cả các cơ quan nghiên cứu quốc tế độc lập đều
công khai công nhận là VN tiến bộ, có một nền kinh tế vững chắc, một hệ thống
cơ sở căn bản [infrastructure] tốt, đứng hàng đầu trong việc chống nạn nghèo
[against poverty ], trong việc chống nạn thất học [against illiteracy] và trong
số 20 quốc gia có số lượng Internet nhièu nhứt trên thế giới VN đứng hàng thứ
16 với số 16,500,000 máy [trên Turkey thứ 17 với 16,000,000 máy, trên
Australia thứ 18, với 15,085,000 máy,trên Taiwan thứ 19 với14.500.000 máy và
Philippines thứ 20 với 14,000,000 máy]. VN có một dân số hơn 83
triệu người, tức là tỷ lệ người dùmg Internet ở VN là 19,40% cũng là đứng hàng
thứ 16 [trước PhiLuậtTân thứ 17 với 16,00%, trước Trung Quốc thứ 18 với 12,30%,
trước Indonesia thứ 19 với 8,90% và trước India thứ 20 /3.70%]
---------------------------------------.
No comments:
Post a Comment
Quí đọc giả đọc xong, nếu thấy chút thú vị thì tác giả cũng mong được chút comment lấy làm kích lệ